KHUYẾN CÁO : Những thông tin, dữ liệu Huyền thuật trên Diễn Đàn chỉ mang tính chất tham khảo, sưu tầm. Không được làm, tập theo, sẽ không hiệu quả thậm chí rất nguy hiểm. Chúng tôi hoàn toàn không chịu trách nhiệm nếu có những sự cố đáng tiếc xảy ra.
 
Trang ChínhLatest imagesTìm kiếmĐăng kýĐăng Nhập
Long Hổ Tông - Ngũ Đế Mễ Đạo - Long Hổ Sơn

Xin chào mừng bạn đến với diễn đàn Mao Sơn Tông của chúng tôi.


Last topic

Share|
Tiêuđề

Ngũ Đế Mễ Đạo - Long Hổ Sơn

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down
Tác giảThông điệp

Qủy Nhi

Tổng số bài gửi : 54
điểm : 154
Join date : 11/03/2012
Tài năng của Qủy Nhi Người này hiện đang:
Level:
Danh vọng:54%/%
Tài năng:%/100%

Bài gửiTiêu đề: Ngũ Đế Mễ Đạo - Long Hổ Sơn Long Hổ Tông - Ngũ Đế Mễ Đạo - Long Hổ Sơn Icon_minitimeFri Oct 19, 2012 8:19 am


Ngũ Đấu Mễ Đạo (五斗米道, nghĩa là "đạo Năm Đấu Gạo"), cũng gọi Thiên Sư Đạo, là một giáo phái ra đời trong giai đoạn đầu của Đạo giáo, tức cuối đời Đông Hán (25–220) trong lịch sử Trung Quốc, do Trương Lăng (34–156) sáng lập. Từ đời Đông Tấn trở đi Ngũ Đấu Mễ Đạo được gọi là Thiên Sư Đạo, từ đời nhà Nguyên trở đi gọi là Chính Nhất Đạo.
Ngũ Đấu Mễ Đạo bắt đầu từ Trương Lăng, người đất Phong (nay là huyện Phong, tỉnh Giang Tô), một hậu duệ của Trương Lương. Trương Lăng từ nhỏ đã nghiền ngẫm về Đạo Đức Kinh, thiên văn, địa lý, Hà Đồ, Lạc Thư, thông đạt Ngũ Kinh; khi trưởng thành từng làm quan lệnh ở Giang Châu, thuộc Ba Quận (nay là Trùng Khánh, Tứ Xuyên), thời Hán Minh Đế. Về sau, ông từ quan, ẩn cư trong núi Bắc Mang Sơn học đạo trường sinh. Thời Hán Thuận Đế, Trương Lăng vào Ba Thục, tu đạo ở núi Hạc Minh Sơn (cũng gọi Cốc Minh Sơn), xưng là Tam Thiên Pháp Sư Chính Nhất Chân Nhân. Về sau khi truyền đạo trong dân gian, nói rằng mình được Thái Thượng Lão Quân truyền đạo Chính Nhất Minh Uy, phong làm Thiên Sư. Vì vậy, dân gian gọi đạo của ông là Thiên Sư Đạo.
Trước tiên ông trị bệnh để thu hút quần chúng và sau đó là truyền đạo. Khi quy tụ được đông đảo quần chúng, Trương Lăng (bấy giờ bắt đầu gọi là Trương Đạo Lăng hay Trương Thiên Sư) tổ chức 24 điểm truyền đạo gọi là 24 Trị, trong đó ba trung tâm lớn là Dương Bình Trị, Lộc Đường Trị, và Hạc Minh Trị.
Do người nhập đạo phải nộp 5 đấu gạo, do đó đạo này gọi tên là Ngũ Đấu Mễ Đạo (đạo 5 đấu gạo), cũng gọi là Mễ Vu (米巫) bởi vì đạo này chịu ảnh hưởng nặng nề của Vu giáo (巫教) của dân tộc thiểu số tại Ba Thục. Một cách giải thích khác là Ngũ Đấu Mễ đọc gần âm với Ngũ Đẩu Mẫu (五斗姆), tức là Bắc Đẩu Mẫu trong Ngũ Phương Tinh Đẩu, đứng đầu trong các sao. Hai cách giải thích này đều thông hành; có thể lúc lập giáo, Trương Lăng đã có chủ ý như vậy. Và cho phù hợp với Nhị Thập Bát Tú (28 sao), sau này 24 Trị phát triển thành 28 Trị.
Khi Trương Lăng mất, con là Trương Hành kế thừa việc truyền đạo. Khi Trương Hành qua đời, con của Trương Hành là Trương Lỗ kế vị. Cả ba đời ông cháu được người đời gọi là Tam Trương, nhưng trong nội bộ phải gọi là Tam Sư: Trương Lăng là Thiên Sư, Trương Hành là Tự Sư, và Trương Lỗ là Hệ Sư.


TRƯƠNG THIÊN SƯ ĐẠO TỔ
[You must be registered and logged in to see this image.]

Khấu Khiêm Chi và Bắc Thiên Sư Đạo

Khấu Khiêm Chi, người Xương Bình, Thượng Cốc (nay thuộc Bắc Kinh), tự xưng là cháu đời thứ 13 của Ung Nô Hầu Khấu Tuần Chi đời Đông Hán, từ nhỏ mộ đạo, theo Trương Lỗ tu tập. Tu đạo lâu năm nhưng không hiệu quả, về sau ông gặp Thành Công Hưng (xưng là tiên) và theo Thành Công Hưng lên Hoa Sơn học đạo thuật, luyện thuốc, tịch cốc; rồi ẩn tu tại Tung Sơn. Sau 7 năm, ông dần dần nổi danh.
Ngũ Đấu Mễ Đạo tức Thiên Sư Đạo từ khi Trương Lăng lập giáo đã quy tụ nông dân, phất cờ khởi nghĩa, xung đột với triều đình phong kiến. Do đó triều đình luôn cảnh giác giáo phái này. Năm Thần Thụy thứ 2 (năm 415) triều Minh Nguyên Đế Thác Bạt Tự của Bắc Ngụy, Khấu Khiêm Chi tuyên bố Thái Thượng Lão Quân giáng lâm Tung Sơn, ban cho ông chức vị Thiên Sư, và ban cho bộ kinh «Vân Trung Âm Tụng Tân Khoa Chi Giới» gồm 20 quyển (gọi tắt là Tân Khoa), ra lệnh cho ông phải phổ truyền bộ Tân Khoa này, đồng thời chỉnh đốn Đạo giáo. Bộ kinh này (tất nhiên là sáng tác của Khấu Khiêm Chi) hiện nay đã mất nguyên bản. Bản Lão Quân Âm Tụng Giới Kinh chép trong Chính Thống Đạo Tạng gồm 1 quyển là bản còn sót lại của 20 quyển nguyên bản, có thể giúp hình dung ra nguyên bản. Quyển kinh này có 30 điều, đại khái thừa nhận địa vị Thiên Sư của Khấu Khiêm Chi, bàn về cải cách tổ chức của các trị (bãi bỏ ngụy pháp của Tam Trương, bãi bỏ chế độ cha truyền con nối của các tế tửu, bãi bỏ chế độ nhận tài vật, thuế và tô của tín đồ, v.v...), cách truyền phù lục, cách thụ giới, cách tu hành, cách viết tấu chương, cách cầu phúc trị bệnh, v.v... Năm Thái Thường thứ 8 (tức năm 423) triều Minh Nguyên Đế của Bắc Ngụy, Khấu Khiêm Chi lại tuyên bố chắt của Lão Quân là Lý Phổ Văn giáng lâm Tung Sơn và truyền cho ông bộ Lục Đồ Chân Kinh (trên 60 quyển), ra lệnh ông phải phụng trì kinh này và phò tá Bắc phương Thái Bình Chân Quân (sau này là đạo hiệu của Thái Vũ Đế).
Sau khi chuẩn bị các bước như trên, Khấu Khiêm Chi rời núi Tung Sơn và đến kinh đô của Bắc Ngụy là Bình Thành (nay là Đại Đồng, Sơn Tây). Ông kết giao với một quan đại thần tên là Thôi Hạo. Thông qua Thôi Hạo, ông dâng đạo thư lên Thái Vũ Đế Thác Bạt Đào. Thái Vũ Đế mới lên ngôi, bản thân hâm mộ Đạo giáo, nghe Thôi Hạo tán dương Khấu Khiêm Chi nên trọng đãi và tín nhiệm ông. Năm sau (năm 425), Thái Vũ Đế thiết lập Thiên Sư Đạo Trường ngay tại Bình Thành, lập đàn cao 5 tầng, tập hợp 120 đạo sĩ cúng tế cầu đảo mỗi ngày 6 lần. Năm 440, Khấu Khiêm Chi nói Thái Thượng Lão Quân giáng lâm bảo ông rằng Lão Quân đã ban đạo hiệu cho Thái Vũ Đế là Thái Bình Chân Quân. Thái Vũ Đế bèn cải niên hiệu là Thái Bình Chân Quân rồi đích thân đến đạo trường để nhận phù lục, và sau đó phong Khấu Khiêm Chi làm quốc sư. Thiên Sư Đạo từ đó cực thịnh. (Niên hiệu Thái Bình Chân Quân bắt đầu từ năm 440 đến 451.)
Lợi dụng Thái Vũ Đế hâm mộ Đạo giáo và bài xích Phật giáo, Khấu Khiêm Chi bắt đầu tiến hành cải cách Thiên Sư Đạo (tức Ngũ Đấu Mễ Đạo). Nội dung chủ yếu của cuộc cải cách là:
- Kiên quyết ngăn cấm việc lợi dụng tôn giáo để làm loạn, phản nghịch triều đình. Khấu Khiêm Chi tuyên bố những kẻ đại nghịch bất đạo này là tặc dân (賊民) ngu ác đã coi thường Lão Quân, do đó sẽ bị trừng phạt. Cốt lõi của sự cải cách của Khấu Khiêm Chi là ông đưa luân lý Nho giáo (đặc biệt nhấn mạnh trung hiếu) vào giới luật của Thiên Sư Đạo. Theo đó, tín đồ tuân thủ giới luật sẽ không làm loạn chống lại triều đình.
- Bãi bỏ chế độ ép buộc tín đồ nộp thuế bằng tiền và nộp tô bằng gạo. Khi Trương Lỗ thống trị Hán Trung, thiết lập chính quyền chính-giáo hợp nhất, mỗi giáo khu (tức là trị) vừa là đơn vị hành chánh do các tế tửu cai trị. Họ có quyền trưng thu thuế bằng tiền và tô bằng gạo và xử lý chúng. Khấu Khiêm Chi bãi bỏ chế độ này để trút gánh nặng cho tín đồ. Ông phê phán đó là ngụy pháp của Tam Trương, và ông chủ trương dùng Tân Khoa (do Lão Quân ban truyền) để trừ ngụy pháp.
- Khấu Khiêm Chi chỉnh đốn tổ chức của Thiên Sư Đạo, tăng cường giới luật. Sau khi Trương Lỗ mất, Ngũ Đấu Mễ Đạo (tức Thiên Sư Đạo) phát triển rộng khắp Trung Quốc, nhưng tổ chức hỗn loạn và giới luật lỏng lẻo. Khấu Khiêm Chi phản đối các tế tửu trưng thu tài vật của tín đồ; cấm tuyệt thuật phòng trung dâm uế giữa nam nữ; các tế tửu phải theo phép xưa của Nho giáo, khi cha mẹ chết thì phải để tang.
- Khấu Khiêm Chi bổ sung giới luật và trai nghi. Bổ sung các tiêu chuẩn đạo đức của Nho giáo như trung, hiếu, nhân, nghĩa, v.v... Đồng thời ông đề cao nghi thức trai tiêu. Ăn chay, tịch cốc, đạo dẫn chỉ có thể sống lâu, nhưng không thể trường sinh bất tử. Muốn trường sinh bất tử thì phải chú trọng trai tiêu. Trai (齋) là trai giới, tắm gội thanh khiết; tiêu (醮) là cúng bái thần linh đề cầu phúc giải tai họa. Trai tiêu (tục gọi là đạo trường 道場) là nghi thức truyền thống của Đạo giáo, tức là lập đàn cúng tế, đọc kinh, cầu đảo.
Cuộc cải cách của Khấu Khiêm Chi giải trừ sự mâu thuẫn xung đột giữa Đạo giáo với triều đình phong kiến vì nhờ bổ sung luân lý Nho giáo vào giới luật. Do đó một giáo phái ban đầu phát khởi từ dân gian đã phát triển thành tín ngưỡng của thành phần sĩ phu hào tộc, trở thành một công cụ phù hợp với nhu cầu của giai cấp phong kiến thống trị. Năm Thái Bình Chân Quân thứ 9 (tức năm 448) Khấu Khiêm Chi liễu đạo (83 tuổi).

Lục Tu Tĩnh và Nam Thiên Sư Đạo

Lục Tu Tĩnh người Đông Thiên, Ngô Hưng (nay là huyện Ngô Hưng của Chiết Giang), là hậu duệ của thừa tướng Lục Khải của nước Ngô thời Tam Quốc. Thuở nhỏ ông theo nghiệp Nho, nhưng hâm mộ Đạo giáo. Khi trưởng thành ông thoát ly gia đình, vào núi tu luyện. Ông là tổ sư đời thứ 7 của Thượng Thanh Phái, rất nổi danh nên cuối những năm Nguyên Gia (424-452) đời Tống Văn Đế Lưu Nghĩa Long của Nam Triều, được mời vào cung giảng đạo thuyết pháp. Thái hậu sùng mộ Hoàng Lão nên bái Lục Tu Tĩnh làm thầy. Năm 461, ông ẩn tu tại Lư Sơn. Tống Minh Đế Lưu Úc của Nam Triều vốn hâm mộ và muốn hoằng dương Đạo giáo, nên cho xây Sùng Hư quán trên núi Thiên Ấn và mời Lục Tu Tĩnh trụ trì. Đạo giáo cực thịnh nhờ sự trọng vọng của triều đình. Năm 477, Lục Tu Tĩnh liễu đạo, các đệ tử đưa ông về Lư Sơn. Ông được ban thụy hiệu là Giản Tịch tiên sinh (簡寂先生), do đó đạo quán tại Lư Sơn đổi tên là Giản Tịch quán (簡寂觀). Sang đời Bắc Tống, vào những năm Tuyên Hòa (1119-1125), vua Tống Huy Tông phong cho Lục Tu Tĩnh là Đan Nguyên Chân Nhân (丹元真人). Đệ tử của ông có nhiều người nổi tiếng như Tôn Du Nhạc (398-489, sau là tổ sư đời thứ 8 của Thượng Thanh Phái), Lý Quả Chi, v.v...
Lục Tu Tĩnh trứ tác rất nhiều. Tác phẩm hiện tồn của ông và được sưu tập trong Chính Thống Đạo Tạng là Thái Thượng Động Huyền Linh Bảo Chúng Giản Văn (太上洞玄靈寶眾簡文), Động Huyền Linh Bảo Ngũ Cảm Văn (洞玄靈寶五感文), Lục Tiên Sinh Đạo Môn Khoa Lược (陸先生道門科略), Thái Thượng Động Huyền Linh Bảo Thụ Độ Nghi (太上洞玄靈寶授度儀), Động Huyền Linh Bảo Trai Thuyết Quang Chúc Giới Phạt Đăng Chúc Cảm Nghi (洞玄靈寶齋說光燭戒罰燈祝感儀), v.v... Nhưng cống hiến quan trọng của ông cho Đạo giáo là cuộc cải cách Thiên Sư Đạo. Trong Lục Tiên Sinh Đạo Môn Khoa Lược, ông đề cập trước tiên việc chỉnh đốn Đạo giáo, bao quát nội dung sau:
Chỉnh đốn tổ chức, kiện toàn chế độ Tam hội nhật (三會日), tức là tập thể thực hành ba ngày trai giới: mồng 5 tháng giêng, mồng 7 tháng 7, và mồng 5 tháng 10.
Chỉnh đốn việc quản lý tín đồ qua chế độ «trạch lục» (宅錄) tức là đăng ký số lượng nhân khẩu trong hộ tín đồ. Trong những ngày Tam hội nhật, tín đồ phải đến sư trị (師治, trụ sở quản lý của trị) để khai báo số nhân khẩu còn hay mất trong hộ.
Cùng lúc tề tựu ở sư trị vào ngày Tam hội nhật để thực hiện việc trạch lục, tín đồ được nghe thuyết giảng giáo lý, các giới cấm, khảo sát kiểm điểm công đức. Các tế tửu viết tên tín đồ vào sớ để khải báo Thiên Tào, cầu xin chư thần ban ơn và hộ trì gia đình tín đồ được an ninh, cầu xin nhương tai giải nạn, v.v...
Lục Tu Tĩnh hết sức coi trọng việc trai giới. Ông tổng kết các nghi thức trai giới đã có và qui định thêm hệ thống trai tiêu gọi là «cửu trai thập nhị pháp» (九齋十二法). Các nghi thức trai tiêu này chịu ảnh hưởng lễ pháp của Nho giáo và tư tưởng «tam nghiệp thanh tịnh» (三業清淨) của Phật giáo.
Bên cạnh việc hệ thống nghi thức trai tiêu, Lục Tu Tĩnh còn tiến hành chỉnh lý hệ thống kinh điển Đạo giáo và phân loại chúng. Ông được kính trọng như một học giả uyên bác của Đạo giáo, đã chỉnh lý, khảo chứng và lập mục lục cho kinh điển của Linh Bảo phái, của Thượng Thanh phái, hệ thống các phương thuốc của Đạo giáo, bùa chú, v.v... (tổng cộng 1128 quyển). Từ đời Tùy đời Đường về sau, những trứ tác và tổng mục do ông lập trở thành cơ sở để sưu tập Đạo Tạng.


Hãy cảmơn bài viết của Qủy Nhi bằng cách bấm vào "" nhé!!!

Về Đầu Trang Go down

Tiêuđề

Ngũ Đế Mễ Đạo - Long Hổ Sơn

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang
Trang 1 trong tổng số 1 trang
.::Host up ảnh miểnphí: Clickhere! - Hướng dẩn sử dụng Diễn đàn:Clickhere!::.
Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
 :: Đạo Giáo :: Tiên Gia Huyền Pháp-